Hình ảnh Đức Giáo Hoàng Leo XIV được nhìn thấy vào thứ Sáu trong cửa sổ trưng bày của một cửa hàng gần Vatican. Hơn 100,000 tín hữu từ 100 quốc gia dự kiến sẽ tụ họp tại Rome để tham dự các biến cố Năm Thánh lên đến đỉnh điểm là Thánh lễ nhậm chức của Đức


Các bài giảng lễ tấn phong của Giáo hoàng từ lâu đã đóng vai trò là những khoảnh khắc sáng suốt, không chỉ khai mạc một triều đại giáo hoàng mà còn báo trước hướng đi của triều đại đó.

Đó là bình luận của Cha Raymond J. de Souza trên National Catholic Register ngày ngày 16 tháng 5 năm 2025.

Theo Cha, Đức Giáo Hoàng Leo XIV sẽ long trọng nhậm chức giáo hoàng vào Chúa nhật — Chúa Nhật thứ năm sau Lễ Phục sinh, hoặc đàng khác là ngày lễ của Thánh Giáo hoàng tử đạo Gioan I (523-526) và ngày sinh của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II.

Toàn thể Giáo hội và phần lớn thế giới sẽ háo hức chờ đợi những gì ngài sẽ nói. Các bài giảng nhậm chức gần đây đã nhận được sự chú ý cẩn thận.

Đức Hồng Y Robert Prevost đã trở thành giáo hoàng ngay sau khi chấp nhận cuộc bầu cử ngài tại Nhà nguyện Sistine và đã thực hiện chức vụ của mình kể từ đó. Tuy nhiên, Thánh lễ vào Chúa Nhật là sự khởi đầu theo nghi lễ lớn. Cho đến năm 1963, đó là lễ “lên ngôi” của giáo hoàng mới, người đội vương miện của giáo hoàng. Nghi lễ kéo dài năm giờ (!) vào năm 1958 đối với Thánh Gioan XXIII, nhưng đã được đơn giản hóa phần nào đối với Thánh Phaolô VI vào năm 1963.

Chân phước Gioan Phaolô I đã từ chối đội vương miện vào năm 1978, và những vị kế nhiệm ngài cũng đã làm theo. Lễ đăng quang hiện là “Lễ khai mạc Thừa tác vụ Phêrô của Giám mục Rôma” và bao gồm việc trao dây pallium (biểu tượng phụng vụ của một tổng giám mục đô thành) và trao Nhẫn Ngư phủ.

Sau khi được trao tặng phù hiệu của chức vụ, Đức Giáo Hoàng Leo XIV sẽ nhận được “sự vâng phục” của một số “đại diện của dân Chúa”. Khoảnh khắc này đã được sử dụng một cách hiệu quả trong quá khứ. Năm 1978, Đức Gioan Phaolô II đã nói với người chủ trì nghi lễ rằng Thánh lễ phải kéo dài ba giờ — đó là thời gian mà đài truyền hình nhà nước Ba Lan đã phân bổ cho Thánh lễ, và ngài không muốn để lại bất cứ thời gian nào sau đó cho những lời tuyên truyền của cộng sản. Sau đó, mỗi Hồng Y sẽ cúi mình chào riêng. Bài giảng dài nhưng bao gồm những khoảnh khắc xúc động trong lịch sử khi Đức Gioan Phaolô ôm Chân phước Stefan Wyszynski, Hồng Y giáo chủ Ba Lan, và Đức Hồng Y trẻ tuổi Joseph Ratzinger của Munich.

Trong Thánh lễ đó, ngày 22 tháng 10 năm 1978, Đức Gioan Phaolô đã có bài giảng nổi tiếng nhất của thời đại truyền thông đại chúng: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cánh cửa cho Chúa Kitô!” Sức mạnh của những lời này lớn đến mức ngày 22 tháng 10 hiện là ngày lễ của Đức Gioan Phaolô. Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã tự phát thêm câu nói đặc trưng của Đức Gioan Phaolô vào bài diễn văn đầu tiên của ngài lúc hát kinh Regina Caeli.

Các bài giảng nhậm chức trong thời gian gần đây đã định hình nên các triều đại giáo hoàng sau này. Vì lý do đó, những lời của Đức Giáo Hoàng Leo sẽ được xem xét chính xác.

Thánh Gioan XXIII

Năm 1958, Đức Giáo Hoàng Gioan đã có toàn bộ bài giảng của mình bằng tiếng Latinh, thông lệ vào thời đó cho những dịp trọng đại. Hôm đó là ngày 4 tháng 11, đúng ngày lễ thánh Charles Borromeo, ngày mà Đức Gioan XXIII đã viết một nghiên cứu nhiều tập trong tác phẩm học thuật của mình về lịch sử Giáo hội.

Gợi lên hình ảnh Người chăn chiên nhân lành, Đức Gioan XXIII đã chọn nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu đã nói về “những con chiên không thuộc đàn chiên này”. Những động lực đại kết và truyền giáo sẽ định hình Công đồng Vatican II đã hiện diện.

Vào đầu Công đồng, Đức Giáo Hoàng Gioan đã chào đón một nhóm các nhà lãnh đạo Do Thái đến Vatican. Trong một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong triều đại giáo hoàng của mình, ngài đã chào họ: “Tất cả chúng ta đều là con của cùng một Cha trên trời. … Tôi là Giuse, anh em của các bạn”.

Giuse — Giuseppe — là tên rửa tội của Đức Gioan XXIII.

Đức Gioan XXIII đã sử dụng cùng một cụm từ trong bài giảng nhậm chức của ngài:

“Giáo hoàng mới có thể được so sánh, qua những thăng trầm của cuộc đời, với người con trai của Tổ phụ Jacob, người đã đón tiếp anh em mình trong sự đau khổ tột cùng, thể hiện tình yêu thương và than khóc cho họ, nói rằng: ‘Tôi là Giuse, anh em của các người.’” (Sáng thế ký 45:4).

Thánh Phaolô VI

Được trao vương miện vào ngày sau lễ trọng thể của Thánh Phêrô và Phaolô năm 1963, Đức Phaolô VI là giáo hoàng cuối cùng đội vương miện. Ngay sau đó, ngài đã cất nó sang một bên như một sự đơn giản hóa nghi lễ của giáo hoàng, chuyển từ ý tưởng về một cung điện hoàng gia sang ý tưởng về “nhà nguyện giáo hoàng” và “gia hộ giáo hoàng”.

Đức Phaolô đã nói trong bài giảng nhậm chức của mình rằng ngài sẽ tiếp tục Công đồng Vatican II. Đó là thời điểm của hy vọng lớn lao, nhưng Đức Phaolô VI đã có thể thấy những đám mây giông trên đường chân trời.

“Chúng ta sẽ bảo vệ Giáo hội Thánh khỏi những sai lầm về giáo lý và phong tục, những thứ bên trong và bên ngoài biên giới của Giáo hội đe dọa đến sự toàn vẹn của Giáo hội và che giấu vẻ đẹp của Giáo hội,” ngài đã thuyết giảng vào năm 1963, một chủ đề mà ngài thường nhắc lại, bao gồm trong bài giảng cuối cùng của ngài, cho Phêrô và Phaolô năm 1978.

Đức Phaolô VI bắt đầu bằng tiếng Latinh, nhưng sau đó đã thuyết giảng các phần bằng tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anhh, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ba Lan và tiếng Nga, báo trước rằng ngài sẽ trở thành vị giáo hoàng hành hương đầu tiên, tận dụng lợi thế của việc đi lại bằng máy bay để đến mọi nơi trên thế giới.

Việc ngài nói một vài từ bằng tiếng Nga vào thời điểm đó thật xúc động — chỉ tám tháng sau Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba và chỉ hai tháng sau thông điệp cuối cùng của Đức Gioan XXIII, Pacem in Terris (Hòa bình trên Trái đất).

Chân phước Gioan Phaolô I

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I tiếp nối Đức Phaolô VI, bắt đầu bằng tiếng Latinh rồi chuyển sang các ngôn ngữ khác, mặc dù chỉ bằng tiếng Ý và tiếng Pháp. Ngài đã có một bài giảng rất ngắn trong dịp này, và gần một nửa bài giảng dành để chào đón những người có mặt; phần còn lại bao gồm những suy gẫm không đáng chú ý về chức vụ Phêrô.

Bài giảng, vô tình, báo hiệu triều đại giáo hoàng ngắn ngủi sắp tới.

Thánh Gioan Phaolô II

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II không hề giảng bằng tiếng Latinh mà bằng tiếng Ý với các đoạn văn bằng nhiều ngôn ngữ khác — trong đó xúc động nhất là tiếng Ba Lan. Ngài cũng đã nói ngắn gọn bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tiệp Khắc, tiếng Nga, tiếng Ukraine và tiếng Litva.

Ngài thừa nhận rằng vị Giám mục mới của Rome “là một người con của Ba Lan… [nhưng] từ thời điểm này, ngài cũng trở thành một người Rôma”.

Trong khi “Đừng sợ hãi” là phần nổi tiếng nhất của bài giảng, thì phần đó cũng chỉ ra chủ nghĩa nhân bản của Ki-tô giáo, vốn sẽ là chủ đề chính trong triều đại giáo hoàng lâu dài của Đức Gioan Phaolô.

“Đừng sợ hãi. Chúa Kitô biết ‘những gì trong con người.’ Chỉ mình Người biết điều đó. Ngày nay, con người thường không biết những gì bên trong mình, trong sâu thẳm tâm trí và trái tim mình.

Con người thường không chắc chắn về ý nghĩa cuộc sống của mình trên trái đất này. Họ bị tấn công bởi sự nghi ngờ, một sự nghi ngờ biến thành sự tuyệt vọng. Vì vậy, chúng tôi yêu cầu anh chị em, chúng tôi cầu xin anh chị em với sự khiêm nhường và tin tưởng, hãy để Chúa Kitô nói với con người. Chỉ mình Người có những lời ban sự sống, vâng, của sự sống vĩnh cửu”.

Đây là một văn kiện hiếm hoi của Đức Gioan Phaolô không đề cập đến Gaudium et Spes, giáo huấn của Công đồng Vatican II rằng Chúa Giêsu Kitô cho con người biết ý nghĩa của việc trở thành con người trọn vẹn.

Đức Gioan Phaolô kết luận bằng chủ nghĩa nhân bản Kitô giáo đó: “Tôi cũng kêu gọi mọi người — mọi người (và với sự tôn kính như thế nào mà tông đồ của Chúa Kitô phải thốt ra từ này: ‘con người’!) — hãy cầu nguyện cho tôi!”

Đức Giáo Hoàng Benedict XVI

Mặc dù Đức Giáo Hoàng Benedict XVI có thể nói được nhiều thứ tiếng, và có lẽ là vị giáo hoàng cuối cùng có thể điều hành các cuộc họp bằng tiếng Latinh, nhưng ngài đã đọc bài giảng nhậm chức hoàn toàn bằng tiếng Ý.

Trong một dấu hiệu chắc chắn về các ưu tiên của mình, Đức Giáo Hoàng Benedict bắt đầu bằng một bài học từ phụng vụ, hát Kinh cầu các thánh tại tang lễ của Đức Gioan Phaolô, tại mật nghị và tại Thánh lễ nhậm chức. Sau đó, ngài ngay lập tức sử dụng một cụm từ mà ngài sẽ quay lại với lòng sùng kính ngày càng tăng, “những người bạn của Chúa”.

Tình bạn với Chúa sẽ là đề xuất liên tục của ngài với thế giới. Trong một bài suy tư sâu sắc và đẹp đẽ về kỷ niệm 60 năm ngày thụ phong, năm 2011 với tư cách là giáo hoàng, Đức Benedict bắt đầu bằng những lời trong nghi lễ thụ phong năm 1951: Tôi không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu (Ga 15:15).

Vào ngày 24 tháng 4 năm 2005, Đức Benedict đã dệt nên một bài suy tư phong phú về Kinh thánh về các biểu tượng phụng vụ của ngày này — dây pallium bằng len và chiếc nhẫn, biểu tượng của người chăn chiên và người đánh cá. Ngài đã dựa vào các nguồn giáo phụ để nhắc nhở chúng ta rằng đối với loài cá, lưới của người đánh cá là một mối đe dọa. Trong một đoạn văn minh họa Đức Benedict như nhà thuyết giáo giáo hoàng vĩ đại nhất kể từ thời các Giáo phụ, ngài đã rao giảng:

Đây là những gì [các Giáo phụ] nói: đối với một con cá, được tạo ra để sống dưới nước, thì việc bị bắt khỏi biển, bị tách khỏi yếu tố quan trọng của nó để phục vụ như thức ăn cho con người là điều tai hại. Nhưng trong sứ mệnh của một người đánh cá, thì điều ngược lại mới đúng. Chúng ta đang sống trong sự xa lánh, trong vùng nước mặn của đau khổ và cái chết; trong biển bóng tối không có ánh sáng. Lưới của Tin mừng kéo chúng ta ra khỏi vùng nước chết chóc và đưa chúng ta vào sự huy hoàng của ánh sáng Thiên Chúa, vào cuộc sống đích thực.

Thật sự đúng: Khi chúng ta theo Chúa Kitô trong sứ mệnh trở thành những người đánh cá của con người, chúng ta phải đưa những người nam và nữ ra khỏi biển mặn với rất nhiều hình thức xa lánh và đến vùng đất của sự sống, vào ánh sáng của Thiên Chúa. Thật sự là như vậy: Mục đích của cuộc sống chúng ta là mặc khải Thiên Chúa cho con người. Và chỉ khi nào nhìn thấy Thiên Chúa thì cuộc sống mới thực sự bắt đầu. Chỉ khi chúng ta gặp được Thiên Chúa hằng sống trong Chúa Kitô, chúng ta mới biết cuộc sống là gì.

Chúng ta không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên và vô nghĩa của quá trình tiến hóa. Mỗi người chúng ta là kết quả của một ý nghĩ của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta đều được mong muốn, mỗi người chúng ta đều được yêu thương, mỗi người chúng ta đều cần thiết. Không có gì đẹp hơn là được ngạc nhiên bởi Tin mừng, bởi cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Không có gì đẹp hơn là biết Người và nói với người khác về tình bạn của chúng ta với Người.

Kết thúc bài giảng, Đức Benedict thừa nhận rằng ngài sẽ luôn là vị giáo hoàng đến sau “Đức Gioan Phaolô vĩ đại”, như ngài đã nói trong lần đầu tiên xuất hiện trên ban công của Nhà thờ Thánh Phêrô sau khi đắc cử.

Ngài đã quay lại với “Đừng sợ” năm 1978, nhưng đã đưa ra một cách diễn giải mới. Nó sẽ trở thành đoạn văn được trích dẫn nhiều nhất trong triều đại giáo hoàng của ngài:

Đừng sợ! Hãy mở rộng cánh cửa cho Chúa Kitô!’ [Đức Gioan Phaolô] cũng đang nói với mọi người, đặc biệt là những người trẻ. Có lẽ chúng ta đều sợ hãi theo một cách nào đó? Nếu chúng ta để Chúa Kitô bước vào cuộc sống của chúng ta trọn vẹn, nếu chúng ta mở lòng hoàn toàn với Người, thì chúng ta không sợ Người có thể lấy đi điều gì đó của chúng ta sao? Có lẽ chúng ta không sợ từ bỏ điều gì đó quan trọng, điều gì đó độc đáo, điều gì đó làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp sao? Khi đó, chúng ta không có nguy cơ bị suy yếu và mất đi sự tự do sao?

Và một lần nữa [Đức Gioan Phaolô] đã nói: Không! Nếu chúng ta để Chúa Kitô bước vào cuộc sống của mình, chúng ta không mất gì cả, không mất gì cả, hoàn toàn không mất gì cả những gì làm cho cuộc sống tự do, tươi đẹp và vĩ đại. Không! Chỉ trong tình bạn này, cánh cửa cuộc sống mới mở rộng. Chỉ trong tình bạn này, tiềm năng to lớn của sự tồn tại của con người mới thực sự được bộc lộ. Chỉ trong tình bạn này, chúng ta mới trải nghiệm được vẻ đẹp và sự giải thoát.

Và vì vậy, hôm nay, với sức mạnh to lớn và niềm tin lớn lao, trên cơ sở kinh nghiệm sống cá nhân lâu dài, tôi nói với các bạn, những người trẻ thân mến: Đừng sợ Chúa Kitô! Người không lấy đi điều gì cả, và Người ban cho các bạn mọi thứ. Khi chúng ta trao tặng bản thân mình cho Người, chúng ta sẽ nhận lại gấp trăm lần. Vâng, hãy mở, mở rộng cánh cửa đón Chúa Kitô — và bạn sẽ tìm thấy sự sống đích thực. Amen.

Bài giảng của Đức Benedict có lẽ sẽ là bài giảng nhậm chức giáo hoàng đẹp nhất từng được đưa ra.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Vào ngày lễ trọng thể của Thánh Giuse, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhậm chức giáo hoàng của mình vào năm 2013. Ngài sẽ chủ yếu giảng về các bài đọc, xếp sự kiện này xuống vị trí thứ hai. Đó sẽ là mô hình của ngài trong 12 năm tiếp theo, tập trung vào các bài đọc, trong khi chỉ đề cập thoáng qua, ví dụ, các vị thánh được phong thánh hoặc sự kiện được cử hành.

Đó là một bài giảng ngắn, khoảng 1,400 chữ, và đề cập đến vai trò của Thánh Giuse như người bảo vệ hoặc "người bảo vệ".

"Thánh Giuse thực hiện vai trò bảo vệ của ngài như thế nào?" Đức Phanxicô đã giảng. Vai trò đó chủ yếu là bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và Thánh Giuse là hình mẫu của việc "luôn chú ý đến Thiên Chúa, cởi mở với các dấu hiệu về sự hiện diện của Thiên Chúa và tiếp thu các kế hoạch của Thiên Chúa, chứ không chỉ đơn thuần là kế hoạch của riêng mình".

Sau đó, Đức Phanxicô đã phác thảo những chủ đề nổi bật trong triều đại giáo hoàng của ngài, cụ thể là bảo vệ những người dễ bị tổn thương và bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, Đức Phanxicô cho biết: “Ơn gọi trở thành ‘người bảo vệ’ không chỉ liên quan đến riêng chúng ta, các Ki-tô hữu. Nó cũng có một chiều kích trước đó đơn giản là nhân bản, liên quan đến tất cả mọi người. Nó có nghĩa là bảo vệ toàn bộ tạo vật, vẻ đẹp của thế giới được tạo ra, như Sách Sáng thế đã nói với chúng ta và như Thánh Phanxicô thành Assisi đã chỉ cho chúng ta. Nó có nghĩa là tôn trọng từng tạo vật của Chúa và tôn trọng môi trường mà chúng ta đang sống. Nó có nghĩa là bảo vệ con người, thể hiện sự quan tâm yêu thương đối với từng người, đặc biệt là trẻ em, người già, những người đang cần sự giúp đỡ, những người thường là người cuối cùng chúng ta nghĩ đến”.

“Xin anh chị em vui lòng, tôi muốn yêu cầu tất cả những người có trách nhiệm trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, và tất cả những người đàn ông và đàn bà có thiện chí: Chúng ta hãy trở thành ‘người bảo vệ’ tạo vật, người bảo vệ kế hoạch của Thiên Chúa được ghi khắc trong thiên nhiên, người bảo vệ lẫn nhau và môi trường”.

Đức Giáo Hoàng Leo XIV

Đức Giáo Hoàng Leo XIV sẽ đến lượt ngài vào Chúa Nhật. Ngài sẽ nói gì? Nếu ngài noi gương những người tiền nhiệm của ngài, Giáo hội sẽ hiểu rõ những gì triều đại giáo hoàng của ngài sẽ mang lại.